Giới thiệu về Long mạch
Phong thủy trọng “sinh khi”, kỵ “gió thổi”, quí “dòng nước”
Phong thủy tốt là phải “Tàng phong , tụ thủy”, tức sinh khí tụ mà không tán, động mà lại tụ và chú trọng đến thời gian, phương vị, địa điểm với quan niệm: núi (sơn long) như vợ, nước (thủy long) như chồng, “Phu tòng phú quí”
Trong long sơn cốc (núi non, gò đồi) thì đá là xương cốt của núi (xương của long – long mạch), đất là thịt của núi (thịt của long), cây cỏ là lông của núi (lông của long)
Vì vậy có núi thì lấy núi để đoán, không có núi thì lấy nước mà đoán.
Núi quí ở to lớn hùng vĩ, nươc quí ở uốn lượn quanh co; quanh co thì nước với núi có khí tụ, hùng vĩ thì núi với nước có khí nổi (lộ ra).
Hễ chủ sơn (núi chính) mà nhấp nhô uốn lượn, đỉnh cao đẹp đẽ, chi cước (nhánh) đi liền với thân, thế núi nguy nga là núi phát phước long mạch.
Phần mà tản mạn yếu ớt, cứng nhắc phù nề, thô, thẳng đuột, nhọn hoắt đều không tốt
Có 5 trường hợp Hung (dữ) là:
– Núi cao nước xiết
– Núi ngắn nước thẳng
– Núi áp sát cắt nước dòng chảy
– Núi lổn nhổn chẳng có hình thể gì mà nước thì chảy nhiều ngả
– Núi lộ mà nước chảy ngược
Có 5 trường hợp khác nữa cũng là Xấu, gồm:
– Nước tù (không có nguồn chảy về)
– Bờ ruộng ngắn nhỏ
– Vũng rãnh cạn khô
– Nổi cồn bãi
– Nước xoáy ngược ào ào do đất dịch chuyển
Tiếp đến là xem chi sơn (núi nhánh):
Chi sơn phải như kho lẫm, như cờ, như trống, phải có quy cách, như thiên mã qui nhân, như hốt ấn văn bút, như rương vàng kiếm báu
Tác dụng của chi sơn là đưa đón, cung phụng, hộ đỡ, khiến chủ sơn càng oai phong lẫm liệt.
Trong long bình địa cũng có sinh khí cát tường, bùn đất sẽ theo đó mà lên xuống, lại có chỗ đất cao lên, gọi là bình chi cao địa, thì rất tốt, nhưng cần có Thanh Long, Bạch Hổ bảo vệ, nếu không thì cũng không thật cát lợi ( chỉ nên dựng miếu, đền, không nên dùng cho an táng). Long bình địa (đồng bằng) gọi là nhập thủ (đẹp), Long nhập thủ bằng 5 cách
– Trực (thẳng)
Nhập thủ – Trực long là xông thẳng phía sau lưng, đỉnh đối diện với lai mạch kết huyệt, cách này khí thế mạnh mẽ, phát phú cực nhanh
– Hoành (ngang)
Nhập thủ – Hoành long là hạ xuống bên cạnh
– Hồi (vòng lại)
Nhập thủ – Hồi long là uốn lượn
– Phi (bay)
Nhập thủ – Phi long là kết tụ ở trên
– Tiềm (ẩn)
Nhập thủ – Tiềm long là sa xuống biển
Ngoài ra còn có cách nhập thủ – Xiển Llong là long mạch tránh né. Nếu nhập thủ không đẹp thì tất cả đều công cốc
Phong thủy trọng “sinh khi”, kỵ “gió thổi”, quí “dòng nước”
Phong thủy tốt là phải “Tàng phong , tụ thủy”, tức sinh khí tụ mà không tán, động mà lại tụ và chú trọng đến thời gian, phương vị, địa điểm với quan niệm: núi (sơn long) như vợ, nước (thủy long) như chồng, “Phu tòng phú quí”
Trong long sơn cốc (núi non, gò đồi) thì đá là xương cốt của núi (xương của long – long mạch), đất là thịt của núi (thịt của long), cây cỏ là lông của núi (lông của long)
Vì vậy có núi thì lấy núi để đoán, không có núi thì lấy nước mà đoán.
Núi quí ở to lớn hùng vĩ, nươc quí ở uốn lượn quanh co; quanh co thì nước với núi có khí tụ, hùng vĩ thì núi với nước có khí nổi (lộ ra).
Hễ chủ sơn (núi chính) mà nhấp nhô uốn lượn, đỉnh cao đẹp đẽ, chi cước (nhánh) đi liền với thân, thế núi nguy nga là núi phát phước long mạch.
Phần mà tản mạn yếu ớt, cứng nhắc phù nề, thô, thẳng đuột, nhọn hoắt đều không tốt
Có 5 trường hợp Hung (dữ) là:
– Núi cao nước xiết
– Núi ngắn nước thẳng
– Núi áp sát cắt nước dòng chảy
– Núi lổn nhổn chẳng có hình thể gì mà nước thì chảy nhiều ngả
– Núi lộ mà nước chảy ngược
Có 5 trường hợp khác nữa cũng là Xấu, gồm:
– Nước tù (không có nguồn chảy về)
– Bờ ruộng ngắn nhỏ
– Vũng rãnh cạn khô
– Nổi cồn bãi
– Nước xoáy ngược ào ào do đất dịch chuyển
Tiếp đến là xem chi sơn (núi nhánh):
Chi sơn phải như kho lẫm, như cờ, như trống, phải có quy cách, như thiên mã qui nhân, như hốt ấn văn bút, như rương vàng kiếm báu
Tác dụng của chi sơn là đưa đón, cung phụng, hộ đỡ, khiến chủ sơn càng oai phong lẫm liệt.
Trong long bình địa cũng có sinh khí cát tường, bùn đất sẽ theo đó mà lên xuống, lại có chỗ đất cao lên, gọi là bình chi cao địa, thì rất tốt, nhưng cần có Thanh Long, Bạch Hổ bảo vệ, nếu không thì cũng không thật cát lợi ( chỉ nên dựng miếu, đền, không nên dùng cho an táng). Long bình địa (đồng bằng) gọi là nhập thủ (đẹp), Long nhập thủ bằng 5 cách
– Trực (thẳng)
Nhập thủ – Trực long là xông thẳng phía sau lưng, đỉnh đối diện với lai mạch kết huyệt, cách này khí thế mạnh mẽ, phát phú cực nhanh
– Hoành (ngang)
Nhập thủ – Hoành long là hạ xuống bên cạnh
– Hồi (vòng lại)
Nhập thủ – Hồi long là uốn lượn
– Phi (bay)
Nhập thủ – Phi long là kết tụ ở trên
– Tiềm (ẩn)
Nhập thủ – Tiềm long là sa xuống biển
Ngoài ra còn có cách nhập thủ – Xiển Llong là long mạch tránh né. Nếu nhập thủ không đẹp thì tất cả đều công cốc
Xem nhập thủ thì phải biết chữ nào trong tứ cục: Ất – Đinh – Tân – Quí thì long nào là sinh vượng Chi địa, rồi cắm đánh dấu chỗ sinh vượng, tránh bát sát (8 long hung), theo phép mà định hướng kết huyệt, rồi dùng la bàn định phương vị
Xem Nhập Thủ
Ghi Chú: Nhìn bảng thấy giữa Long Mạch và Can chuyển đổi cho nhau theo cặp và chỉ khác nhau về Bát Quái
Từ phương Càn nhập thủ mà hình tượng vừa tươi tốt, vừa viên mãn, vừa có sinh khí thì đó là “Chân Long” (mạch thật), phát phú quí
Nếu nhập thủ tương phản với sinh vượng của tứ cục ắt tử tuyệt
Phạm bát san khắc chế (8 điều sát – long hung) nhẹ thì giảm phú quí, nặng ắt người chết, của hết.